Truyền thuyết về sự hình thành
Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa từ phương Bắc.
Tục truyền: Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỉ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Hình thái và 1 số đặc điểm xã hội:
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù… những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết, tuy vậy có thể tạm chấp nhận để giải thích về nguồn gốc dân tộc Việt. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng (300 TCN trở lại), thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn).
Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mị nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ)
Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ, tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió… Trên bề mặt trống đồng Đông Sơn còn thể hiện các phong tục lễ hội của người Việt cổ thời ấy, thường được miêu tả trong trang phục của chim Lạc.
Thời này có rất nhìu truyền thuyết, vì đã có chép sử đâu…
Truyền thuyết bánh chưng bánh giầy gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã có thể công khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nông nghiệp, người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (có thể bao gồm cả lúa nếp) và chăn nuôi (có thể bao gồm lợn/heo, …); về triết học, bánh chưng và bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm có mặt đất hình vuông màu xanh lá cây và bầu trời hình tròn màu trắng.
Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh thể hiện phần nào thiên tai chủ yếu mà người Việt cổ phải chống chọi có thể là thuỷ tai. Nó cũng cho thấy các sức mạnh thiên nhiên, hay những nhân vật quan trọng giúp người dân chống trọi với thiên nhiên được thần tượng hoá (Sơn Tinh, Thủy Tinh). Các vị thần này vẫn có thể có quan hệ hôn nhân với các công chúa của vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thông lệ cống nạp sản vật quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này.
Các truyền thuyết khác như Phù Đổng Thiên Vương miêu tả một cuộc xâm lấn của giặc Ân vào thời Hùng Vương thứ 6, Mai An Tiêm miêu tả sự khai phá vùng đất phía nam (Thanh Hoá) với giống hoa quả mới (dưa hấu), sự tích trầu cau giải thích về phong tục ăn trầu …
Qua truyền thuyết bánh chưng bánh dầy có thể thấy Hùng Vương truyền ngôi bằng cách thi tuyển lựa công khai (dân chủ Công xã nguyên thuỷ) còn truyền thuyết Thánh Gióng có thể thấy người Lạc Việt đã dùng ưu thế đồ sắt để đánh bại quân xâm lược…
Kết cục:
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía đông bắc Văn Lang sang đánh. Thục Phán lúc đó là vua của tộc người Âu Lạc ở vùng Đông Bắc VN bi giờ. Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN, kết thúc thời kỳ Hồng Bàng. Ngày nay ở vùng cao nguyên Đà Lạt, vẫn còn một tộc người thiểu số tự xưng là con cháu loài chim Lạc, có thể giả định là di dân của các bộ lạc Lạc việt cổ sau nhiều thời kỳ chiến tranh loạn lạc.
=================================================================
Những nghi vấn còn lấn cấn (của mình):
1. Thời đại Hồng Bàng có thực sự có thiệt?… vì tất cả chỉ là truyền thuyết… và nếu có thiệt thì đây có lẽ bộ máy nhà nước thô sơ nhất của dân tộc với Hùng Vương thực sự là Thủ lĩnh liên minh các thị tộc Lạc Việt
2. Vấn đề Niên đại: chúng ta luôn tự hào 4000 năm văn hiến với thời Hồng Bàng bắt đầu từ năm 2879 trCN??? nếu vậy tính cho tới lúc kết thúc năm 257 trCN, trải qua 18 đời Hùng Vương, vị chi mỗi bác Hùng tại vị 110 năm??? hoàn toàn vô lý… sử gia Trần Trọng Kim ước đoán Niên đại thời Hồng Bàng là 600-257 trCN… vậy là cùng thời với triều đại Yamato Nhật Bản và Cộng Hoà La Mã… nhưng đây chỉ mới là ước đoán… chưa có công tác khảo cổ kiểm nghiệm
3. Giặc Ân là bọn nào? Nếu nói là nhà Ân-Thương thời đồ đồng bên TQ thì hoàn toàn ko đúng vì nhà Thương cách rất xa biên giới VN bi giờ, năm trên lưu vực Hoàng Hà… nếu xét theo kiểu đánh 1 trận “nửa chiều giặc tan” trong truyền thuyết Thánh Gióng thì có lẽ đây chỉ là 1 cuộc chiến tranh thị tộc nhanh và chóng vánh thường chỉ với 1 trận đánh… và bọn Ân nào đó chắc cũng là 1 thị tộc ở VN… truyền thuyết này chủ yếu ca ngợi sức mạnh của vũ khí sắt lúc đó mới đc sử dụng lần đầu (ngựa sắt, roi sắt)
4. Giả sử là việc Thánh Gióng dựa trên 1 cuộc chiến tranh thật và người Lạc Việt dùng đồ sắt thì tại sao đến thời An Dương Vương trong thành Cổ Loa lại xài tên đồng và giáo, rìu đồng??? phải chăng người Âu Việt chậm tiến hơn thời Lạc Việt và họ chiến thắng nhờ khả năng điều binh và ưu thế nỏ Liên châu (mình sẽ có bài nói về món vũ khí có 1-0-2 này)? tất cả đành dựa vào những kết quả khảo cổ sau này…
5. Có thể coi Thục Phán là quân xâm lược? Vì chúng ta tự cho là con cháu Lạc Long Quan-Âu Cơ, còn những truyền thuyết chỉ nhắc về bộ tộc Lạc Việt với nhà nước VănLang mà ko nói gì về tộc Âu Việt, cho tận đến triều An Dương Vương với nhà nước Âu Lạc…, những truyền thuyết cho thấy chúng ta tách biệt so với tộc Âu Việt… nhà nước của Thục Phán tồn tại ko lâu sau đó đã bị Triệu Đà nước Tần thôn tính…
Tags: vua_hùng, thời_hồng_bàng
Thursday May 31, 2007 – 02:36am (ICT) Permanent Link | 0 Comments
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG ( tiếp theo và hết )
IV. Ý NGHĨA VÀI TRUYỆN CỔ TÍCH ĐỜI HÙNG VƯƠNG
Phần lớn các truyện cổ tích đều ở thời đại các vua Hùng, phản ảnh một xã hội thái hòa và hùng mạnh:
Truyện Phù Đổng Thiên Vương
Đời vua Hùng Vương thứ 6, giặc Ân sang xâm chiếm nước ta. Vua xuống chiếu cầu hiền. Ở làng Phù Đổng có đứa bé mới 3 tuổi xin vua đúc cho mình một con ngựa sắt và một thanh kiếm sắt. Đứa bé vươn mình thành một người khổng lồ, cưỡi ngựa sắt phun lửa, cầm gươm ra trận, đánh tan giặc Ân. Sau ngài tới núi Ninh Sóc rồi bay lên trời. Vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương (tức Thánh Gióng).
Truyện này cho ta thấy dưới thời Hùng Vương, kỹ thuật rèn binh khí bằng sắt đã tinh vi, song song với kỹ thuật đồ đồng tạo ra những trống đồng tinh xảo (hình 1), hiện nay còn lưu truyền. Tuy các vua Hùng hiếu hòa, không gây hấn xâm chiếm các nước khác để bành trướng lãnh thổ, nhưng cũng có quân đội hùng mạnh bảo vệ quốc gia.
Truyện Trầu Cau
Ngày xưa có hai anh em sinh đôi là Cao Tân và Cao Lang, giống nhau, không ai phân biệt được. Cô con gái thày học của hai người mới bưng ra hai bát cháo và một đôi đũa để mời. Cô để ý ai ăn trước là anh, rồi xin cha mẹ lấy người ấy. Người em buồn rầu, bỏ đi, rồi chết hóa ra cây cau. Người anh đi tìm em, biết chuyện cũng buồn rầu ngồi tựa gốc cây cau mà chết, hóa thành hòn đá vôi. Người vợ đi tìm chồng, khi biết chuyện cũng buồn mà chết cạnh hòn đá, hoá thành cây trầu, quấn quýt lấy hòn đá và cây cau. Vua Hùng nếm thử lá trầu, miếng cau và vôi, thấy rất thơm miệng, và nước trầu đỏ ối rất đẹp. Cảm vì truyện đầy tình nghĩa, vua Hùng ra lệnh dùng trầu cau trong việc cưới hỏi. Tục lệ nay đến nay vẫn còn tuy ngày nay rất ít người ăn trầu.
Truyện này mô tả tình tiết éo le của một mối tình không may nhưng tràn đầy tình gia tộc và cho thấy dưới thời Hùng Vương, gia đình đã là một thực thể rõ rệt, không phải chờ đến thế kỷ thứ nhất mới được Thái Thú Nhâm Diên người Tầu dạy dỗ việc cưới hỏi cho dân ta!(2). Truyện cũng chứng tỏ quyền tự do của nữ giới trong việc chọn người bạn đời.
Truyện Chử Đồng Tử
Chử Đồng Tử là một người con rất có hiếu nhưng cũng rất nghèo, hai cha con chỉ có một cái khố! Khi bố chết, Chử Đồng Tử quàng cái khố độc nhất cho cha mang đi chôn, rồi đành phải sống trần truồng. Một hôm con gái vua Hùng Vương thứ 18 là Tiên Dong Mỵ Nương đi thuyền chơi, đến bãi làng Chử Xá, quây màn trên bãi cát để tắm. Chử Đồng Tử sợ quá lấy cát phủ lên mình, không ngờ nước tắm làm trôi cát, lộ thân hình Chử Đồng Tử. Tiên Dong cho là duyên trời, bèn cùng chàng kết nghia vợ chồng. Vì sợ vua cha, Tiên Dong không dám trở về kinh đô, bèn cùng chồng lập ra phố xá buôn bán rất thịnh vượng.
Một hôm Chử Đồng Tử đi buôn ngoài bể, học được đạo, trở về dạy lại cho Tiên Dong. Hai người có một cây gậy thần và một chiếc nón thần, đi đến đâu, cắm gậy trên mặt đất rồi che chiếc nón thì bỗng hiện ra dinh thự, kho tàng, dân cư, binh lính tấp nập. Vua cha thấy thế cho là Tiên Dong tạo phản, mang quân đến dẹp. Tiên Dong không chống cự. Một đêm, vợ chồng Sử Đồng Tử hóa phép đưa cả khu vực của mình bay lên trời.
Truyện này cho thấy, đôi trai gái tuy cùng là con hiếu thảo nhưng tình yêu giữa hai người đã vượt được giai cấp, đưa đến tự do hôn nhân, tự lực cánh sinh, phát triển thương mại và có lợi ích thực tế so với “nón thần, gậy thần” chẳng khác.
Đọc những truyện vừa kể và những truyện khác xẩy ra dưới thời Hùng Vương như truyện Trương Chi-Mỵ Nương, sự tích bánh dầy, bánh chưng, truyện Sơn Tinh-Thủy Tinh, truyện Quả Dưa Đỏ…truyện nào cũng bao hàm một ý nghĩa sâu sắc, diễn tả một lối sinh hoạt đầy tình người dưới đời Hồng Bàng.
V. HỘI ĐỀN HÙNG
Đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương xây trên núi Nghĩa Lĩnh, thôn Cổ Tích, làng Hy Cương, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Bắc Việt. Đặc biệt người xây đền thờ là An Dương Vương cũng là người thay thế họ Hồng Bàng làm vua nước ta.
Sử sách nói rõ ngày 12 tháng 3 âm lịch là ngày lễ giỗ Quốc tổ Kinh Dương Vương. Tới năm 1922, sau khi trùng tu đền Hùng, vua Khải Định đã chọn ngày 10-3 là ngày Lễ Quốc Tổ Hùng Vương. Hội Đền Hùng thường kéo dài từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch. (3)
VI. KẾT LUẬN
Trải qua gần 5000 năm, dân Việt vẫn trường tồn. Từ một nước nhỏ, Việt Nam đã trở thành một nườc lớn, tuy dân số đông đảo nhưng vẫn giữ được đặc tính riêng biệt và đồng nhất của dân Việt. Sở dĩ ta không bị đồng hoá với Trung Hoa vì tổ tiên ta đã hết sức chống lại sự đồng hoá ấy dưới mọi hình thức, hoặc tích cực như kháng chiến chống ngoại xâm dành quyền tự chủ, hoặc tiêu cực như âm thầm giữ gìn gia sản tinh thần trong thời ngoại thuộc. Tổ tiên ta đã rất thành công trong việc đồng hóa các giá trị nhân bản, những kỹ thuật tân kỳ du nhập từ những nền văn minh khác để làm giàu cho văn hoá nước mình, điển hình là Nho giáo, Lão giáo từ Trung Hoa, Phật giáo từ Ấn Độ, và Thiên Chúa giáo từ Âu châu.
Biến cố 1975 đã đưa hàng triệu người Việt ra khỏi quê cha đất tổ. Con dân Việt sống ở hải ngoại không thể không nghĩ cách lợi dụng cơ hội này để bảo tồn và phát triển văn hóa nước nhà. Trách nhiệm này ngày nay mong các anh chị em trẻ tuổi ở hải ngoại tiếp tay gánh vác.
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
I. DẪN NHẬP
Việt Nam là một trong những quốc gia được thành lập sớm nhất trong nhân loại. Lịch sử loài người chính thức được ghi nhận vào năm 4241 B.C. (trước Thiên Chúa giáng sinh) (1). Vị vua đầu tiên của nước ta là Kinh Dương Vương lên ngôi năm 2879 B.C., 14 thế kỷ sau khi lịch sử bắt đầu. Lúc đó nhân loại đã tiến bộ nhiều. Các nền văn minh lớn đã được phát triển: Người Ai Cập đã làm ra lịch và nhạc khí, đã chế được hợp kim đồng, vàng, và bạc…Các thành phố vùng Mesopotamia đã được tổ chức (1) trước thời Kinh Dương Vương hàng 2000 năm. Văn minh Trung Hoa cũng đã phát huy rực rỡ trước và đồng thời với đời Hồng Bàng. Vì vậy, nói rằng Việt Nam đã lập quốc từ gần 5000 năm nay, không phải là nói chuyện hoang đường thời tiền sử.
Nguồn gốc của dân Việt như thế nào? Có giả thuyết cho rằng người Việt trước đây thuộc giống Tam Miêu bên Tàu, sau bị người Hán đánh đuổi, phải lui về địa phận Bắc Việt và bắc Trung Việt để sinh sống (2). Lại có thuyết cho rằng dân ta có nguồn gốc Mã Lai. Ta có thể tạm tin rằng, trước thời Hồng Bàng, tổ tiên ta đã sống ở vùng châu thổ sông Hồng Hà và sông Mã (Thanh hóa). Tới thời Hùng Quốc Vương, xã hội Việt tộc được tổ chức qui mô, trở thành nước Văn Lang. Trong 1000 năm Bắc thuộc, chắc chắn có những cuộc di dân của người Hán tràn xuống phía nam. Sau này, trong cuộc Nam Tiến, Việt tộc cũng pha trộn thêm các sắc dân Chàm và Cao Mên, tạo ra nòi giống Việt ngày nay. Tuy dân ta có bị ảnh hưởng Hán tộc và các sắc dân hải đảo nhưng vẫn không bị đồng hóa, vẫn giữ được Việt tính tương đối đồng nhất về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục…
Các chuyện xảy ra trong đời Hùng Vương không phải chỉ là huyền thoại. Trái lại, có nhiều bằng cớ xác đáng xác nhận những chuyện đó rất đáng tin. Đặc biệt dân Việt không nhất thiết thờ Vật Tổ (totem) như nhiều dân tộc khác. Huyền sử nguồn gốc TIÊN RỒNG về Quốc tổ Hùng Vương mang nhiều ý nghĩa triết lý của một dân tộc đã có một nền văn minh xán lạn tự ngàn xưa.
II. HUYỀN SỬ VỀ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Sử chép: Vua Trung Hoa là Đế Minh đi tuần thú phương nam, tới miền núi Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh cho con là Đế Nghi làm vua phương bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ (2878 B.C.). Nước Xích Quỷ rất lớn, chiếm gần một nửa nước Tàu ngày nay ở phía nam sông Dương Tử (Bản đồ 1). Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm nối ngôi làm vua, tức là Lạc Long Quân (Hùng Hiền Vương). Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, con gái Đế Lai, cháu gái Đế Nghi sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành 100 người con trai (2,3) (xin xem danh sách 100 quan lang trong Bảng 1). Hai vị vua khai sáng của nước ta là giòng dõi của Vụ Tiên và Long nữ nên dân tộc Việt vẫn tự coi là giòng dõi Tiên Rồng. Về sau, Lạc Long Quân mang 50 con xuống biển, Âu Cơ mang 49 con lên núi, để con trưởng là Hùng Lân ở lại Phong Châu (Vĩnh Yên, Bắc Việt) làm vua, lấy hiệu là Hùng Quốc Vương, đặt tên nước là Văn Lang (Bản Đồ 2). Họ Hồng Bàng truyền được 18 đời, mỗi đời có nhiều vị vua mang cùng một vương hiệu (4) (Bảng 2). Đến năm 258 B.C. nước Văn Lang bị Thục An Dương Vương xâm chiếm, lập ra nước Âu Lạc (Bản Đồ 3).
Theo huyền sử, họ Hồng Bàng truyền qua 18 chi, trung bình mỗi chi có 4 đời vua (4) và đã giữ nước được 2622 năm. Chúng ta nhận thấy hai vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương (I) và Lạc Long Quân (II) trị vì nước Xích Quỷ rất lớn, còn từ HùngVương III thì lại trị vì nước nhỏ Văn Lang ở địa phận nước ta (địa phận nước Văn Lang rộng lớn như nước Xích Quỷ theo truyền thuyết đều bị phần lớn các sử gia bác bỏ). Sau khi thay đổi quốc hiệu, thì vương hiệu là Hùng Vương không thay đổi nữa. Vì vậy ta có thể suy đoán rằng giữa đời Lạc Long Quân (II) và Hùng Quốc Vương (III) phải có những biến cố rất lớn trong một khoảng thời gian dài 268 năm mà tên tuổi các vua trong thời kỳ này không được ghi lại. Có lẽ nước ta lúc bấy giờ có 18 thị tộc thay nhau làm vua. Khi bắt đầu nắm quyền lãnh đạo, mỗi thị tộc lại khai sáng ra một niên hiệu Hùng Vương mới. Dù còn nhiều nghi vấn về triều đại Hùng Vương, chúng ta cũng đã biết chắc chắn rằng hơn 4000 năm trước các vị vua Hùng đã sáng lập ra một nước Việt độc lập, văn minh và thái bình trong suốt 26 thế kỷ.
III. NƯỚC VĂN LANG
Sau thời huyền sử của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, các vị vua Hùng kể từ chi thứ ba là Hùng Quốc Vương đã trị vì nước Văn Lang. Vậy nước Văn Lang là nước như thế nào?
Về địa lý, Văn Lang có khoảng 1 triệu dân, gồm miền châu thổ sông Hồng (Bắc Việt), châu thổ sông Mã, sông Chu (Thanh Hóa), trải dài xuống phía nam, khoảng vùng Quảng Bình.
Về chính trị, Văn Lang chia làm 15 bộ. Việc phân quyền đã rất rõ rệt: Trên hết là Hùng Vương, kế đên là Lạc Hầu coi viêc văn, Lạc Tướng coi việc võ, quan nhỏ gọi là Bồ Chính. Kinh đô đặt tại Phong Châu, thuộc địa hạt Vĩnh Yên ngày nay.
Về sinh hoạt, dân chúng thạo nghề chài lưới (có tục vẽ mình), nông nghiệp mở mang (truyện bánh dày, bánh chưng, truyện An Tiêm trồng trại dưa đỏ…), thạo nghề luyện kim (truyện Phù Đổng Thiên Vương, việc chế tạo trống đồng đẹp và tinh xảo nhất vùng Đông Nam Á). Thương mại cũng phát triển, có cả người ngoại quốc tới buôn bán (truyện Chử Đồng Tử).
Về quốc phòng, ta ít nghe chuyện giặc giã và chiến tranh với ngoại bang, trừ giặc Ân (chi Hùng Vương thứ 6). Vua Hùng đã mở trường huấn luyện quân sĩ đặt tên là Cẩm Đội.
Về phong tục, gia đình đã là nền tảng của xã hội (truyện trầu cau) với nhiều phong tục thuần nhã, đề cao chữ hiếu nhưng cũng có sự tự do trong hôn nhân (truyện Tiên Dong, truyện trầu cau). Nếp sống êm đẹp này đã có trước khi ta chịu ảnh hưởng của người Trung Hoa dưới thời Bắc thuộc.
Có tất cả bao nhiêu vị vua Hùng? ( hết )
Có tất cả bao nhiêu vị vua Hùng?
Để phỏng đoán, tái tạo ra những dữ kiện thiếu xót, chúng ta hãy thử sử dụng phương pháp có tên là Reverse Engineering (cách tính ngược(?)), khá phổ biến trong ngành kỹ sư Nhu liệu (Software Engineering), như sau:
Căn cứ vào giai đoạn của những năm có dữ kiện về số vua có cùng vương hiệu – tức là từ năm 1712 (BC) đến 409 (BC) – có tổng cộng 45 vị vua trị vì trong (1712-409=) 1,303 năm. Như vậy, mỗi ông vua giữ ngôi trung bình (1,303/45=) 29 năm. Đây là một con số có thể chấp nhận được.
Giả sử một vị vua tiêu biểu lên ngôi năm 9 tuổi; Sau khi làm vua 29 năm, băng hà năm 38 tuổi. Đây có thể là tuổi thọ trung bình của các vua Hùng.
Nếu lấy con số 29 năm trị vì làm chuẩn, trong (từ 2879 đến 258, tức là) 2,621 năm, 18 đời vua Hùng sẽ có (2621/29=) 90 vị vua.
Đây là một giải thích hợp lý, nên tương đối dễ chấp nhận, căn cứ trên những chi tiết có ghi trong Ngọc Phả Hùng Vương.
* * *
Để tránh những nghi vấn khi nói đến thời Hùng Vương, từ nay về sau có lẽ chúng ta nên nói lại cho rõ: Mười tám đời vua Hùng, có 90 vị vua nối tiếp nhau trị vì trong suốt 2,621 năm lập quốc của nước Việt Nam.
Phối kiểm chính xác lại lịch sử là việc làm chuyên nghiệp của các sử gia. Bài viết này chỉ có mục tiêu góp ý, cung cấp thêm dữ kiện cho những người đọc muốn tìm hiểu về lịch sử của các vị vua lập quốc Việt Nam.
Nguyên Giao
20 April 2004
Ngọc Phả Hùng Vương: Ký hiệu HT-AE9; Vụ Bảo Tồn Bảo Tàng – Bộ Văn Hóa Việt Nam.
Giới Thiệu Đền Hùng: của Vũ Kim Biên, Sở Văn Hóa-Thông Tin-Thể Thao Vĩnh Phú; Xuất bản năm 1993.
Năm mươi quan lang (tức hoàng tử) đi theo cha (Lạc Long Quân, tức vua Hùng Hiền Vương) xuống biển: Lân lang, Xích lang, Quynh lang, Mật lang, Thái lang, Vỹ lang, Huân lang, Yên lang, Tiên lang, Diên lang, Tích lang, Tập lang, Ngọ lang, Cấp lang, Tiếu lang, Hộ lang, Thục lang, Khuyến lang, Chiêm lang, Vân lang, Khương lang, La lang, Tuần lang, Tân lang, Quyền lang, Đường lang, Kiều lang, Dũng lang, Ac lang, Tảo lang, Liệt lang, Ưu lang, Nhiễu lang, Lý lang, Châm lang, Tường lang, Chóc lang, Sáp lang, Cốc lang, Nhật lang, Sái lang, Chiểu lang, Hoạt lang, Điển lang, Tràng lang, Thuận lang, Tâm lang, Thái lang, Triệu lang, Ích lang.
Năm mươi hoàng tử đi theo mẹ (bà Au Cơ) lên núi: Hương lang, Kiểm lang, Thần lang, Văn lang, Vũ lang, Linh lang, Hắc lang, Thịnh lang, Quân lang, Kiên lang, Tế lang, Mã lang, Chiến lang, Khang lang, Chinh lang, Đào lang, Nguyên lang, Phiên lang, Xuyến lang, Yến lang, Thiếp lang, Bảo lang, Chừng lang, Tài lang, Triệu lang, Cố lang, Lư lang, Lô lang, Quế lang, Diêm lang, Huyền lang, Nhị lang, Tào lang, Nguyệt lang, Xâm lang, Lâm lang, Triều lang, Quán lang, Cánh lang, Oc lang, Lôi lang, Châu lang, Việt lang, Vệ lang, Mãn lang, Long lang, Trình lang, Tòng lang, Tuấn lang, Thanh lang.
Chín Mươi Vị Vua Hùng
Triều đại vua Hùng đã được bắt đầu như thế nào?
Trong chương Giới Thiệu Đền Hùng, Vũ Kim Biên có ghi: “Vua đầu nước ta là Kinh Dương Vương, cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông (vị thần coi về nông nghiệp của Trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp tiên nữ Au Cơ ở động Lăng Xương, kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Au Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Khi các con lớn khôn, Lạc Long Quân nói ‘Ta giống Rồng, nàng giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được!’ bèn chia 50 con cho Au Cơ đem lên núi. Lạc Long Quân dẫn 49 con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở thành Văn Lang, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.”
Triều đại các vua Hùng đã chấm dứt ra sao?
Vẫn theo Vũ Kim Biên: “Vua Hùng 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn (tức Tản Viên). Thục Phán là cháu vua Hùng, làm Lạc tướng, bộ Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng-Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các vua Hùng. Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa, đổi tên nước là Au Lạc.”
Những diễn tiến bắt đầu và chấm dứt của triều đại này như vậy đã được ghi lại khá mạch lạc. Có vấn đề là chi tiết của các đời vua nối tiếp nhau trong quãng thời gian hơn 2,600 năm không đầy đủ, đưa đến nhiều nghi vấn.
Những suy diễn không hợp lý
Hầu hết sử sách đều ghi đại ý “Mười tám đời vua Hùng trị vì (từ 2879 trước Tây-lịch (BC) đến năm 258 (BC), tức là) hơn 2,600 năm, lập ra nước Việt Nam”.
Nếu cho rằng mỗi đời vua chỉ có một vị vua, số năm trị vì trung bình của 18 vị vua Hùng là ((2879-258)/18=) 146 năm. Tuổi thọ của một vị vua tất nhiên phải cao hơn số năm làm vua. Do đó tuổi thọ trung bình của các vị vua Hùng phải nhiều hơn 146 năm. Giả sử một ông vua tiêu biểu lên ngôi năm 9 tuổi (có Phụ chính Đại thần xử lý), và làm vua cho đến lúc qua đời: Tuổi thọ của ông vua tiêu biểu phải là 155 tuổi. Với điều kiện sinh sống (nhất là về y học, và dinh dưỡng) chưa phát triển của nhân loại cách đây gần 5,000 năm, tuổi thọ 155 năm là một con số không hợp lý, nên khó có thể chấp nhận được.
Tài liệu của Vũ Kim Biên trong khi chi tiết đến độ có liệt kê được đủ tên của 100 người con trai của Lạc Long Quân (tức vua Hùng Hiền Vương), đã chấp nhận không giải quyết được vấn đề tổng số các vua Hùng như sau: “Trong điều kiện hiện nay, chúng ta chưa thể hiểu hết được nội dung bản Phả Lệ. Về thời gian tồn tại nước Văn lang 2796 năm, và tuổi thọ của các vua còn là điều bí ẩn.”
Một cách giải thích: Mỗi một “đời vua Hùng” có thể có nhiều hơn một vị vua
Ngọc Phả Hùng Vương hình như là tài liệu lịch sử duy nhất có ghi số vua của một số trong 18 chi của các vị vua Hùng. Những chi tiết đáng để ý của Ngọc Phả này có thể được đúc kết như trong bảng dưới đây:
|
Chi
|
Vương hiệu
|
Húy của vị vua đầu tiên
|
Năm sinh của vị vua đầu tiên
|
Năm bắt đầu của vương hiệu
|
Năm cuối của vương hiệu
|
Số vua có cùng vương hiệu
|
Số năm của vương hiệu
|
Số năm làm vua trung bình
|
Chú thích: Các năm đều là năm trước Tây-lịch (tức là BC (Before Christ)).
Cách đọc bảng dữ kiện: Lấy thí dụ đời vua Hùng thứ 9: Vương hiệu (cho chi Giáp) của thời đại này là Hùng Định Vương. Có 3 vị vua tiếp nối nhau, và cùng mang vương hiệu cũng như chi. Vị vua đầu tiên có tên húy (tên tục, nếu là thường dân) là Châu Nhân Lang: Ong sinh năm 1375 (BC), lên ngôi năm 1331 (BC), tức là lúc 44 tuổi. Sau ông, hai vị vua khác – có thể là con cháu của ông – đã thay phiên nhau tiếp tục trào Hùng Định Vương cho đến năm 1252 (BC); Trung bình mỗi ông vua trị vì ((1331-1252)/3=) 26 năm. Trào Hùng Định Vương được tiếp nối bằng một ông vua Hùng khác, có vương hiệu mới là Hùng Uy Vương. Sự thay đổi vương hiệu có thể do những sự kiện như tuyệt tự, không có con trai nối dõi, hay xoán đoạt, v.v.
Có nhiều thiếu xót, cũng như một vài chi tiết không hợp lý trong Ngọc Phả Hùng Vương; Thí dụ:
1. Tại sao vương hiệu đầu tiên không có chữ “Hùng”?
2. Năm bắt đầu cho chi 5 (1912) xảy ra trước khi chi 4 chấm dứt (1918);
3. Năm bắt đầu chi 13 (958) không nối tiếp ngay khi chi 12 chấm dứt (969);
4. Ong vua đầu tiên của chi 7, Hùng Chiêu Vương, lên ngôi lúc (1786-1631=) 155 tuổi!
Vì Ngọc Phả Hùng Vương không ghi đủ tổng số vua cho tất cả 18 chi, cho nên câu hỏi vẫn là: